Thứ Hai, 17 tháng 8, 2015

LẠM BÀN VỀ TRIẾT LÝ SỐNG

Ảnh minh họa  Một hình tượng về triết lý sống

4766. LẠM BÀN VỀ TRIẾT LÝ SỐNG

Posted by adminbasam on 17/08/2015


FB Nguyễn Đình Cống

17-08-2015

Ngày 13 tháng 8 Bauxite đăng bài “Đi tìm Triết lý sống của dân Việt”, của Hữu Mạnh, trong loạt bài “Nói thật không sợ mất lòng ”. Tôi không phải chuyên gia trong lĩnh vực triết lý nên không dám bàn sâu, chỉ xin “lạm bàn” vài điều để trao đổi với tác giả và những ai quan tâm.

Về tổng thể tôi tán thành, ủng hộ bài viết, thấy được tác giả là “người vẫn nặng lòng với đất nước” (lời của Hữu Mạnh trong bài viết). Tuy vậy, theo tôi, tác giả còn né tránh, để trống hoặc chưa chặt chẽ trong một vài nhận định.

Tác giả viết, đại ý là trên thế giới, trong lịch sử nhân loại có nhiều Triết lý sống (TLS) khác nhau, có thể quy về 2 dạng chính là : sống vì nhân quần hay sống vì lợi ích riêng, vì cá nhân mình. (theo tôi sẽ là tốt hơn khi kết hợp hài hòa 2 TLS ở trên). Trên cơ sở phân tích đặc điểm của các TLS tác giả phân chia thành TLS tiến bộ, tích cực và TLS phản tiến bộ, tiêu cực.

Tác giả cho rằng ngoài các nhu cầu bình thường thì mọi người đều có nhu cầu quan trọng là tìm được TLS phù hợp. Thế rồi tác giả viết: “Hiện nay đa phần người Việt có chung một niềm day dứt khôn nguôi là: chưa tìm được triết lý sống mà chỉ có thủ đoạn sống thấp hèn”. Cuối cùng tác giả than thở “Tiếc thay và buồn thay, một dân tộc anh hùng, một đất nước có mấy ngàn năm văn hiến…, thế mà nay người dân chỉ sống và phải sống bằng các thủ đoạn sống, tức là cách sống thấp hèn”.

Về điều này tôi nghĩ hơi khác. Đúng là trong hơn nửa thế kỷ vừa qua một số người dân VN có đầu óc dân chủ, tự do gặp rất nhiều khó khăn khi tìm TLS trong hoàn cảnh đất nước xây dựng CNXH dưới sự lãnh đạo của ĐCS, nhưng đó chỉ là số ít (tôi ước tính chưa đến 5% dân số). Đa phần người Việt đã xác định được TLS phù hợp với bản chất của họ, phù hợp với hoàn cảnh xã hội họ đang sống, chỉ cần phân tích xem đó là TLS tích cực hay tiêu cực mà thôi. Các TLS của dân Việt hiện nay có thể chia làm 5 loại.

Loại 1- Là đa số quan chức của Đảng và Nhà nước ở các cấp các ngành, quyền lợi của họ gắn chặt với chế độ. TLS của họ là tích cực bảo vệ chế độ để lợi dụng quyền lực nhằm vinh thân phì gia, một số trong bọn họ trở thành những tư sản đỏ, làm giàu trên cơ sở chiếm đoạt tài nguyên quốc gia và liên kết chặt chẽ với số người giàu khác. Không ít kẻ thuộc loại “miệng nam mô, bụng bồ dao găm” hoặc “Bề ngoài thơn thớt nói cười. Mà trong nham hiểm giết người không dao – Kiều”

Loại 2- Là đa số trong tầng lớp nhà giàu mới nổi lên nhờ tài năng hoặc những sự may mắn nào đó. Đi theo họ, ăn theo họ là những người làm trong các tập đoàn kinh tế, các công ty trong nước và nước ngoài, có thu nhập khá. Loại này có TLS là lo kiếm được càng nhiều tiền càng tốt, không cần biết đến đời sống chung của toàn dân, không quan tâm đến hậu quả công việc, đấy là TLS “sống chết mặc bay, tiền này bỏ túi”. Một mặt họ có đóng góp tích cực cho xã hội, mặt khác, một số trong họ cũng nêu vài gương xấu, tiêu cực.

Loại 3- Những người tự cho là chân chính, một lòng theo Đảng làm CM, xây dựng CNXH, họ vui vẻ chấp nhận khó khăn gian khổ, mất tự do và dân chủ hiện tại (mà họ không thấy được) để hướng tới xã hội tốt đẹp mà Đảng hứa hẹn trong tương lai. Trước đây loại này chiếm đại đa số, bị phân hóa và thu hẹp dần, nay cũng chỉ còn thiếu số (ước tính chỉ dưới 15% của toàn dân), họ tự hào là đã theo ĐCS và có một TLS tiến bộ nhất thế giới (một nhầm lẫn quá tai hại). Một số đông cán bộ, nhân viên cấp thấp trong các cơ quan, đoàn thể được ghép vào loại này.

Loại 4- Tương đối đông, sống với triết lý “an phận thủ thường, mũ ni che tai”, lo sợ đủ thứ, chỉ mong kiếm đủ bát cơm và chỗ ngủ hàng ngày mà không bị bắt bớ, không bị quấy rầy, họ không cần đến tự do tư tưởng, tự do ngôn luận, không cần đến đời sống dân chủ, không cần lao động sáng tạo.

Loại 5- Một số ít có TLS mà họ cho là tích cực, đấu tranh cho tự do, dân chủ, bất chấp sự nguy hiểm cho bản thân và gia đình, nhưng họ lại bị loại 1 và 3 quy kết là phản động, được một số người này cảm phục, kính trọng và bị một số khác xa lánh. Các cán bộ, quan chức và nhà doanh nghiệp, đa số thuộc loại 1, 2 hoặc 3, tuy vậy cũng có một số không ít thuộc loại này.

Những người mà theo Hữu Mạnh day dứt không nguôi, chưa tìm được TLS phù hợp là vì họ gặp phải mâu thuẩn giữa cuộc sống thực tại và lý tưởng cao đẹp, họ không lý giải được nguyên nhân sâu xa dẫn tới sự dối trá tràn lan, sự xuống cấp về đạo đức, làm nhiều người trước đây rất tin vào chế độ và sự lãnh đạo, nay niềm tin đó đã bị mất hết.

Triết lý sống cũng như phong tục, tập quán không phải tự nhiên mà có. Tất cả đều bắt đầu bằng nhận thức, việc làm và chỉ đạo của một người hoặc vài người có vai trò, có ảnh hưởng trong địa phương, trong xã hội. Từ đó, bằng cách tự phát lan truyền, bằng sự tuyên truyền hoặc các chỉ thị mà phát triển rộng ra nhiều người, ra toàn xã hội. Trong mấy chục năm vừa qua, đối với dân Việt thì người có vai trò, có ảnh hưởng là đảng viên ĐCS từ cao xuống thấp.

Lời than của tác giả “Tiếc thay và buồn thay… cách sống thấp hèn” thật ai oán, não nùng. Tôi chỉ muốn bổ sung câu hỏi “Vì đâu nên nỗi”, hay ngữa mặt lên trời mà kêu “Xanh kia thăm thẳm từng trên. Vì ai gây dựng cho nên nỗi này” (Chinh phụ ngâm). Phải tìm cho đúng nguyên nhân gốc rễ thì may ra mới có được biện pháp hữu hiệu để chữa, còn chỉ mới thấy hiện tượng thì chỉ có thể ôm hận và than thở hoặc sửa chữa một cách vá víu.

Thực ra tác giả đã đề cập: “Một quốc gia luôn đề cao thái độ nhẫn nhịn, ươn hèn trước kẻ thù mạnh hơn mình thì làm sao mà tạo dựng cho người dân một TLS vừa Minh vừa Dũng được? Một đất nước luôn dung dưỡng bất công, tham nhũng, dối lừa, độc đoán chuyên quyền, luôn đề cao đồng tiền… thì đừng hy vọng mọi người dân đều có được TLS tiến bộ, cao đẹp!”. Riêng đoạn này tôi nghĩ tác giả đã né tránh, mới dám nhìn thẳng vào một phần sự thật. Xin đừng đổ lỗi cho quốc gia và đất nước. Quốc gia, đất nước không can dự gì vào việc này cả.

Phải thẳng thắn chỉ ra vai trò của những người lãnh đạo, mà cụ thể là của Đảng Cộng sản VN, một đảng theo Chủ nghĩa Mác lênin (CNML), chủ trương vô sản chuyên chính, đấu tranh giai cấp, tôn sùng vật chất, phản đối tâm linh, tuyên truyền dối trá, nặng về dùng mưu mô và đàn áp, nhẹ về lòng nhân ái, bao dung. Nhân đây xin phép được nhắc lại một kết luận mà tôi đã rút ra và công bố trong một số bài trước đấy: “Nguyên nhân gốc nhiều tệ nạn của xã hội VN hiện nay là sự kết hợp, sự cộng hưởng giữa một bên là phần yếu kém trong nền văn hóa dân tộc, một bên là những độc hại của CNML”. Tôi nghĩ đây cũng là nguyên nhân gốc của tệ nạn trong việc lựa chọn TLS của người Việt hiện tại. Chính vì ĐCSVN kiên trì CNML, giữ chặt sự độc quyền toàn trị, làm sinh ra một đội ngũ quan chức mà phần lớn yếu năng lực, kém đạo đức, thiếu gương mẫu, tham nhũng, mua quan bán tước và dối trá. Thì chính Hữu Mạnh cũng nhận xét về sự hư hỏng của lớp trẻ là do: “bắt chước các cha anh hư đốn nhưng lại có vai vế trong xã hội”.

Tác giả rất quan tâm đến lớp trẻ, nhận xét là họ đang bị hư hỏng vì thiếu TLS, phải được trang bị kỹ năng sống. Tác giả viết: “Chúng ta không thể trách chê một chiều thế hệ trẻ ngày nay, mà ngược lại, chúng ta cần phải dang tay nâng các em lên, chỉ cho các em điều hay lẽ phải, bằng những phương thức giáo dục thích hợp”. Vấn đề này tôi chỉ đồng ý với tác giả khoảng trên 50%, còn nữa xin bàn thêm.

Đúng là một bộ phận lớp trẻ đang có phần hư hỏng (chỉ một bộ phận thôi chứ không phải số đông), nhưng lớp già hư hỏng nhiều hơn. (xin nhắc lại câu: lớp trẻ bắt chước các cha anh hư đốn nhưng lại có vai vế trong xã hội). Có phải một phần lớp trẻ TỰ HƯ HỎNG hay có cái gì đấy, có ai đấy làm cho họ trở nên hư hỏng. Ai phải chịu trách nhiệm chính về việc này. Về điều này tác giả cũng đã viết: “Xã hội nhiễu nhương, tha hóa về các giá trị văn hóa tinh thần, xuống cấp nghiêm trọng về đạo đức… thì rất khó để các em có thể trở thành “Hoa Sen giữa bùn lầy”. Mà trong lúc chỉ có một phần nhỏ bị hư hỏng trong một vài cách xử sự còn phần lớn lớp trẻ vẫn là lực lượng tích cực trong nhiều công việc.

Tác giả cho rằng: “Chúng ta cần phải dang tay nâng các em lên, chỉ cho các em điều hay lẽ phải…”. Tôi nghĩ bản thân tác giả có thể làm điều đó, tôi và một số người lớn khác cũng có thể làm điều đó nhưng CHÚNG TA thì chưa chắc đã làm được. Chúng ta là ai, phải chăng là thế hệ người lớn, là ông bà, cha mẹ, chú bác v.v…, trong đó có nhiều người hư đốn lại có vai vế trong xã hội. Ngươi đang ốm yếu, lấy sức đâu mà nâng người khác, ngươi đang hư đốn lấy gì để chỉ cho người khác điều hay lẽ phải. Nếu người đang thực sự hư đốn mà lại rao giảng điều hay lẽ phải cho người khác thì đó là sự dối trá, bịp bợm, ai mà nghe được.

Như vậy thì chúng ta, những người lớn phải tự hoàn thiện mình để làm gương trước đã. Khi người lớn đã thực sự gương mẫu thì thế hệ trẻ sẽ theo đó mà tốt lên. Mà người lớn cần làm gương trước hết là những nhà lãnh đạo đất nước ở các cấp, lãnh đạo các đoàn thể, các thầy cô trong trường, các ông bà, cha mẹ, anh chị trong gia đình.

Để tạọ cơ sở cho việc làm gương này thì về chính trị phải xây dựng một thể chế thật sự dân chủ để dân bầu ra được những người lãnh đạo có phẩm chất, phải thi hành chế độ Tam quyền phân lập, như vậy những người có chức quyền mới làm gương sáng được. Còn nếu quan chức đạt được quyền lực bằng mưu chước gian dối, bằng thế lực hoặc tiền tài trong một chế độ độc quyền toàn trị thì phần lớn họ chỉ có thể nêu gương đen tối, nêu gương xấu xa, bẩn thỉu mà thôi.

Xin cám ơn tác giả Hữu Mạnh đã viết bài, do đó tôi có dịp bày tỏ vài ý kiến lạm bàn. Cũng còn một vài điều nữa có thể bàn thêm, nếu có dịp sẽ xin trao đổi riêng với tác giả.

Nguồn BVN

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét