Thứ Ba, 5 tháng 1, 2016

Câu Chuyện Đầu Năm: Thoát Khỏi Sợ Hãi


Câu Chuyện Đầu Năm: Thoát Khỏi Sợ Hãi

Nguyễn Quang Dy

“Không phải quyền lực làm tha hóa mà là sợ hãi. Sợ mất quyền lực làm tha hóa những người nắm quyền và sợ cái gậy quyền lực làm tha hóa nhữg người bị nó cai trị…” (Aung San Suu Kyi, diễn văn nhận giải thưởng Sakharov về Tự do Tư tưởng, 7/1991)



***

“Thóat khỏi sợ hãi” không phải là một ý tưởng mới, nhưng Aung San Suu Kyi đã làm mới và đúc kết nó lại thành một lý thuyết mới và niềm tin vững chắc, không những dựa trên triết lý Phật giáo và các tri thức phổ quát khác, mà còn dựa vào trải nghiêm của chính bản thân minh đã bị chính quyền độc tài quân sự đầy đọa suốt hai thập kỷ bằng quản thúc biệt lập. Lý thuyết này đã được Suu Kyi trình bày rõ trong bài luận “Thoát khỏi sợ hãi” (1990) và các bài viết, bài giảng, bài phỏng vấn khác trong những năm qua, để chia sẻ với người dân Miến Điện và thế giới bên ngoài, trong cuộc đấu tranh lâu dài và gian khổ vì tự do, dân chủ và nhân quyền, bằng đấu tranh bất bạo động. Muốn học hỏi kinh nghiệm của người Miến Điện (do Suu Kyi va NLD lãnh đạo) đã giành được thắng lợi to lớn trong cuộc tổng tuyển cử vừa qua, điều cần thiết là phải hiểu rõ “Thoát khỏi sợ hãi” thực sự có ý nghĩa gì, và chúng ta phải làm thế nào để ứng dụng đươc lý thuyết và kinh nghiệm đó vào thực tế của mình.


Kinh nghiệm thực tế

Bài học Miến Điện

Miến Điện từng là thuộc địa của Anh, nhưng có lẽ người Miến Điện không căm thù và bài xích người Anh. Sau khi giành độc lập, người Miến Điện không phải chống người Anh như người Việt Nam phải chống người Pháp (vì chúng “muốn chiếm nước ta một lần nũa”). Cũng như Ấn Độ, người Miến Điện chịu ảnh hưởng nhiều của ngôn ngữ Anh và văn hóa Anh. Tuy Miến Điện có nhiều mâu thuẫn sắc tộc và tôn giáo nên cần một chính quyền trung ương và quân đội mạnh để giữ gìn an ninh trật tự, nhưng có lẽ chế độ độc tài quân sự chỉ là ngoại lệ, chứ không phải là truyền thống.

Việc hiến pháp (do quân đội soạn thảo) cấm người có vợ chồng con cái là người nước ngoài làm tổng thống chỉ là một thủ đoạn chính trị để đối phó tình huống (với Aung San Suu Kyi), chứ có lẽ không phải là truyền thống văn hóa bài ngoại. Điều khoản này chắc sẽ phải bỏ, vì sau tuyển cử thắng lợi Suu Kyi đã tuyên bố thẳng thừng là sẽ “ở trên tổng thống”. Đa số các sỹ quan cao cấp, trí thức, và doanh nhân Miến Điện đều học các trường của Anh, nên việc lấy người nước ngoài không phải hiếm.

Việc đa số lãnh đạo quân đội và phe đối lập đều là trí thức là một tiền đề quan trọng và may mắn để hai phía có thể hòa giải. Tuy lãnh đạo quân đội trở thành độc tài, tham nhũng, mất lòng dân, nhưng vì họ là trí thức có hiểu biết nên có thể nhận ra sai lầm để chấp nhận đàm phán và thỏa hiệp. Đạo Phật và trí thức là hai yếu tố thuận lợi cho đấu tranh bất bạo động và hòa giải dân tộc ở Miến Điện.

Khi đàm phán có hai tiền đề quan trọng là phải xây dựng lòng tin (không nuốt lời hứa và không trả thù) và hai bên phải theo luật chơi (dựa trên luật pháp hay quy tắc ứng xử). Nếu hai bên tiếp tục lo sợ, nghi ngờ, thù hận thì không thể có lòng tin. Nếu hai bên không ứng xử có văn hóa thì sẽ không tôn trọng luật chơi (sẽ chơi theo luật rừng). Nói cách khác, muốn hòa giải và thỏa hiệp, thì phải từ bỏ cực đoan và thù hận. Người Miến Điện có thể làm đươc, liệu người Việt Nam có làm được không?


Bài học Việt Nam

Trong khi tại Miến Điện (hay Thái Lan) Phật giáo vẫn là quốc giáo, được cả chính quyền và người dân tôn trọng, thì tại Việt Nam (hay Trung Quốc) Phật giáo bị chính quyền thao túng để kiểm soát vì lo sợ. Kết quả là Phật giáo bị xâm nhập, phân hóa, thương mại hóa, ngày càng suy thoái trở thành “mạt pháp”. Do đó, Phật giáo không còn là nền tảng văn hóa cho tập quán và hành xử tử tế của con người trong cộng đồng, nên ngày càng nhiều người hành xử một cách vô đạo (bạo lực và dối trá)

Vì thiếu nguồn đào tạo bài bản và có nhân cách trí thức, nên giới trí thức nhỏ bé và phân tán của Viet Nam càng dễ bị vô hiệu hóa và phân hóa, có vai trò khá mờ nhạt trong xã hội. Số lượng bằng cấp và học vị thì rất nhiều và rất cao, nhưng đáng tiếc đa số đều là học dối và bằng gian, hoặc chất lượng thấp. Đặc biệt là trong giới lãnh đạo và quan chức thì điều này lại càng phổ biến, rất hiếm trí thức thực thụ. Đây là một khoảng cách trí thức (intellectual gap) giữa Việt Nam với các nước khác (kể cả Miến Điện). Nhiều người cho rằng hầu như không thể tìm được một nhân vật nào như Aung San Suu Kyi.

Vi lý do này (và những lý do khác) Viêt Nam không phải chỉ là một chế độ độc tài, mà còn là một xã hội bị phân liệt, vì cả dân thường lẫn các các thành phần chính trị ưu tú cũng không theo một chuẩn mực ứng xử nào đàng hoàng hay rõ ràng (mà như “luật rừng”). Nó phản ánh tâm lý lo sợ, bất an, nghi ngờ, xô đẩy họ ứng xử với thói quen đối phó tình huống trước mắt, chỉ để tồn tại (chứ không phải để phát triển), dẫn đến những hành động bất thường, cực đoan, và bạo liệt.

Trong quan hệ với Mỹ, mối lo “diễn biến hòa bình” khá nặng nề, vừa do Trung Quốc xúi bẩy (từ bên ngoài), vừa do “tâm trạng cố thủ” (từ bên trong), như một hệ quả của chiến tranh. Mối lo này còn tăng lên gấp đôi vì mối đe dọa (vừa thật vừa phóng đại) của “các thế lực thù địch và phản động” trong cộng đồng người Việt Nam ở Mỹ và phương Tây, như “Mặt Trận” do Hoàng Cơ Minh cầm đầu (trước đây) cũng như “đảng Việt Tân” (hiện nay) mà cả hai được nói đến trong phim “Terror in Little Saigon”.

Ngay cả khi Việt Nam rất cần hợp tác với Mỹ để tham gia sân chơi TPP và nâng cấp quan hệ đối tác chiến lược với Mỹ để tái cân bằng với Trung Quốc và đối phó với mối đe dọa ngày càng lớn tại Biển Đông, thì mối lo sợ Mỹ can thiệp vẫn còn ám ảnh. Tâm lý này được giải tỏa một phần khi Tổng Bí thư Đảng CSVN đến thăm chính thức Washington gần đây, được tổng thống Mỹ đón tiếp long trọng, với những lời đảm bảo chính thức không can thiệp vào nội bộ. Nhưng mối lo ngại về Trung Quốc và Mỹ vẫn tiếp tục làm lãnh đạo Việt Nam lúng túng, không dám quyết định dứt khoát đi theo hướng nào.

Trong nước, chính quyền lo đối phó với bất đồng và phản kháng ngày càng nhiều của người dân, do bị các nhóm lợi ích thân hữu (được độc quyền nhà nước che chở) chiếm đoạt ruộng đất và tài sản, và do kinh tế suy thoái vì quản lý yếu kém và tham nhũng tràn lan, lại bị ám ảnh bởi những thay đổi rung chuyển gần đây tại Trung Đông và Miến Điện. Tất cả tạo nên sức ép ngày càng lớn lên giới lãnh đạo và các thể chế chính trị đang bị phân hóa sâu sắc bởi lợi ích nhóm và tranh cãi về ý thức hệ, làm cho đấu tranh phe phái và tranh giành quyền lực càng bị phân hóa và trở nên cực đoan hơn trước.

Tuy đấu tranh phe phái và tranh giành quyền lực là chuyện bình thường tại các nước, nhưng nó trở nên bất bình thường tại Việt Nam vì hiểm họa Trung Quốc đã chuyển từ tiềm ẩn thành hiện thực kể từ khi họ quyết định lấn chiếm và kiểm soát Biển Đông bằng cách đem dàn khoan HD 981 vào vùng biển của Viêt Nam (nên 5/2014 là một bước ngoặt). Họ san lấp các đảo và xây dựng các công trình quân sự trên các đảo tại khu vực Trường Sa và Hoàng Sa, thách thức ASEAN, Mỹ và cộng đồng quốc tế.

Đại hội XII đứng trước một thách thức lớn vì nó diễn ra trong bối cảnh quan hệ Việt Trung đang khủng hoảng và Biển Đông đang trở thành thùng thuốc súng. Nó đòi hỏi lãnh đạo Việt Nam phải quyết định chọn con đường nào: Đổi mới cơ bản và toàn diện vì lợi ích quốc gia để mạnh lên từng bước “thoát Trung”, hay tiếp tục mù quáng đi theo con đường mòn Thành Đô lệ thuộc vào Trung Quốc theo “định hướng XHCN”. Trong khi cương lĩnh chính trị và kinh tế của Đảng chẳng đưa ra được cái gì mới, thì lãnh đạo chỉ chúi đầu vào vấn đề nhân sự để tìm mọi cách giành giật cái ngôi báu đã mục nát. Tại hội nghị trung ương 13 (và 14) trước Đại hội Đảng (từ 20-28/1/2016) tuy họ ráo riết giành thế thượng phong nhằm chiếm vị trí cao nhất, nhưng vẫn bế tắc chưa thỏa thuận được phương án về “bộ tứ”, không biết vì yếu tố bên trong (do không thỏa hiệp được với nhau) hay vì yếu tố bên ngoài (do Trung Quốc can thiệp). Chỉ biêt rằng thù hận, lo sợ và tham lam sẽ tiếp tục đẩy họ vào ngõ cụt, nguy hiểm cho chính họ và cho đất nước.

Dù phái nào giành được thế thượng phong trong trò chơi quyền lực nhơ bẩn và cực đoan “một mất một còn” này, và dù ai trong số “bộ tứ” đang cầm quyền sẽ giành được vị trí đứng đầu tại Đại hội XII sắp tới, thì nhân dân sẽ thua và đất nước này sẽ còn khổ, nếu chẳng có ai trong số họ thực sự muốn cải cách cơ bản và “thoát Trung”. Trong khi đó, Trung Quốc một lần nữa lại đang trùm cái bóng đen lên sân khấu chính trị Việt Nam khi Chủ tịch Quốc hội VN đột ngột đi thăm Trung Quốc (21/12/2015), làm dấy lên lo ngại là Trung Quốc có thể can thiệp trực tiếp vào nội bộ Việt Nam để ủng hộ phái thân Trung Quốc khi trận đấu cuối cùng sắp diễn ra tại Hà Nội vào cuối tháng này. Một bức tranh thật ảm đạm!

Những diễn biến nguy hiểm này đang là tâm điểm thời sự, nhưng là vùng “nhạy cảm” đối với “báo chí lề phải”, ngày càng trở nên bất lực do bị kiểm duyệt chặt chẽ. Vì vậy, các phe phái đang lợi dụng cả báo chí “lề trái” để đánh nhau, vì hiệu quả hơn. Việc xuất hiện trang mạng bí ẩn “Chân dung Quyền lực” là một ví dụ. Sự phát triển nhanh chóng của truyền thông kỹ thuật số và các mạng xã hội đang trở thành mối lo đối với bộ máy tuyên giáo lạc hậu của Đảng, đang lúng túng không biết kiểm soát thế giới mạng như thế nào. Hiện nay, mối lo “tự diễn biến” là sự nối tiếp của mối lo “diễn biến hòa bình” trước đòi hỏi về dân chủ và nhân quyền đang tăng lên (sau thỏa thuận TPP) sẽ trở thành thực tế trong 2016.

Nói cách khác, người Việt Nam đã “sống trong sợ hãi” quá lâu nên sợ hãi trở thành một phần cuộc sống và họ có thể thấy khó sống nếu thiếu sợ hãi (giống như những người nghiện xem phim ma). Khi người Miến Điện bắt đầu “thoát khỏi nỗi sợ” để hòa giải, như thoát khỏi một đường hầm dài, thì người Việt nam vẫn đang mắc kẹt trong đường hầm tối đen. Hà Nội càng chìm đắm vào những mưu đồ chính trị trước Đại hội Đảng, thì nó lại càng giống “thung lũng sợ” với đủ mọi loại sợ trên đời.

Muốn chơi với Mỹ thì sợ mất lòng Trung Quốc và sợ “diễn biến hòa bình”; Muốn tham gia TPP thì sợ dân chủ và nhân quyền; Chấp nhận xã hội dân sự thì sợ “tự diễn biến”; Thích nhận kiều hối nhưng sợ “các thế lực thù địch”; Chống tham nhũng (đánh chuột) thì sợ “vỡ bình”; Phải minh bạch thì sợ “lộ bí mật nội bộ”; Tiếp dân thì sợ “dân khiếu kiện”; Kêu gọi dân góp ý thì sợ “trí thức phản biện”; Sử dụng mạng thì sợ truyền thông “lề trái”; Thích đấu đá nội bộ, nhưng lại sợ mất ghế…

Tóm lại là chúng ta sợ tất cả, sợ một cách cực đoan và tiêu cực. Không phải chỉ có người dân mà cả chính quyền vẫn đang “sống trong sợ hãi”. Vì vậy, nếu không “thoát khỏi sợ hãi” thì đất nước này không thể “thoát Trung”, dân tộc này không thể thoát khỏi nghiệp chướng “tù binh của quá khứ”, tiếp tục mắc kẹt trong đường hầm và hang tối của ý thức hệ, không có lối thoát.

Thay cho lời kết

Sợ hãi và cực đoan là bạn đồng hành, và là hệ quả của nhau, như câu chuyện “con gà và qủa trứng”, không biết cái nào có trước hay có sau. Sợ hãi và cực đoan là hai mặt của một vấn đề, như “âm bản và dương bản”, một cái phản ánh trạng thái cảm xúc, một cái phản ánh trạng thái tư duy. Cả hai luôn tương tác với nhau trở thành nguồn năng lượng tiêu cực, có khả năng phá hủy khôn lường. Cả hai kết hợp với nhau thành một tai họa kép, là nguyên nhân sâu xa của mọi tai họa trên đời.

Muốn chống cực đoan phải thoát khỏi sợ hãi, và muốn thoát khỏi sợ hãi phải chống cực đoan, không phải chỉ từ bên ngoài mà còn từ bên trong (chính mình). Muốn chống bạo lực, khủng bố, chiến tranh, và muốn hòa giải, hòa hợp, hòa bình và hợp tác, trước hết phải thoát khỏi tâm trạng sợ hãi và hận thù , phải thoát khỏi tư duy cực đoan và cuồng tín, để thực sự thay đổi trước khi quá muộn.

Hãy tự hỏi tại sao thừa nhận nỗi sợ hãi lại khó đến thế. Có lẽ còn khó hơn là thừa nhận sai lầm và thất bại. Tuy nỗi sợ hãi có thể là thuộc tính của Con người Nguyên thủy, nhưng không phải là thuộc tính của Con người Văn minh. “Thoát khỏi sợ hãi” là giải phóng mình khỏi hang động tối tăm (như “Tù binh của Qúa khứ”) để ra bên ngoài hưởng ánh sang mặt trời.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét