Chủ Nhật, 10 tháng 5, 2015
Phân tích đặc điểm các phát ngôn của giới lãnh đạo
GS. Nguyễn văn Tuấn - Phân tích đặc điểm các phát ngôn của giới lãnh đạo
Đăng bởi Hai Hoang Van on Chủ Nhật, ngày 10 tháng 5 năm 2015 | 10.5.15
Tuần qua, có một câu chuyện liên quan đến Tổng thống Obama và cậu học trò Osman Yahya 11 tuổi nói lên phong cách lãnh đạo. Số là cậu Osman làm MC điều hành chương trình đối thoại trên tivi giữa TT Obama và học của một trường trung học ở bang Maryland bên Mĩ, khi một học sinh hỏi ông Obama có thích đọc sách không, và ông Obama bắt đầu trả lời rằng ông mê đọc sách, thì cậu MC ngắt ngang rằng “Tôi nghĩ ông đã trả lời hết câu hỏi đó rồi.” Ông Obama nói nửa đùa nửa thật rằng “OK, Osman nghĩ rằng tôi nói dài dòng quá”, Osman vừa cười vừa nói “Không, không”, nhưng Obama nói “thôi, mình tiếp tục”. Các bạn có thể xem video (1) để thấy:
Câu chuyện có thể hiểu và nhìn theo nhiều góc cạnh. Nhưng tôi thì thấy cái phong cách rất tuyệt vời của Obama, vì ông làm cho buổi phỏng vấn rất thân mật, và quan trọng là ông cũng buồn phiền khi bị một cậu học trò đáng tuổi con mình ngắt ngang và sửa lưng! Thử tưởng một vị lãnh đạo Việt Nam mà bị một cậu học sinh nói “Thôi, ông nói dài quá, đủ rồi”! Cậu học trò Việt Nam đó chắc bị nư đòn ?!
Sẵn dịp bàn về phong cách nói, tôi muốn chia sẻ cùng các bạn vài nhận xét và phân tích của tôi về những phát biểu của giới lãnh đạo VN. Có khi nào các bạn tự hỏi tại sao người ta không muốn đọc những bài viết của giới lãnh đạo, và khi họ viết hay nói ra cái gì thì rất ít người đọc. Người đọc thì chê (ví dụ như bài của vị nào đó trên Vietnamnet bị dislike nhiều gấp mấy lần like). Tôi tự hỏi câu này rất thường xuyên, và tôi rút ra vài đặc điểm thú vị dưới đây, mà tôi nghĩ có thể giải thích tại sao những phát ngôn của lãnh đạo VN kém hấp dẫn. Đây là bài viết còn ở bản nháp, và sẽ bổ sung khi nghĩ ra ý mới.
Những người lãnh đạo giỏi và có bản lĩnh họ không chỉ nói, mà còn thực hiện những gì họ nói. Ngay cả cách nói, mỗi một lần phát biểu họ đều để lại những câu mà báo chí có trích trích dẫn (quotable words) hay làm cho người nghe phải suy nghĩ vì nó có cái wisdom trong đó. Chẳng hạn như khi nói về những việc làm liên quan đến tai nạn máy bay MH17, thủ tướng Úc nói “Mục tiêu của chúng ta là đảm bảo phẩm giá, sự tôn trọng, và công lí cho người quá cố và người đang sống.” Đó là một câu có thể trích dẫn.
Nhìn lại giới lãnh đạo VN, tôi thấy hình như họ không có cái tư chất về ăn nói của chính khách phương Tây. Chính khách VN quen với đường mòn chữ nghĩa mang đậm bản chất XHCN nên họ chỉ loanh quanh những câu chữ quen thuộc. Họ không nói được cái gì cụ thể, mà chỉ xoay quanh các khẩu hiệu quen thuộc, kiểu như “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.” Đọc qua nhiều bài phát biểu của các lãnh đạo VN tôi nhận ra vài đặc điểm chính (có thể chưa đủ) như sau:
Thứ nhất là tính chung chung, không có một cái gì cụ thể. Có thể nói rằng thói quen phát biểu chung chung là đặc điểm số 1 của chính khách VN, họ không có khả năng nói cái gì cụ thể, tất cả chỉ chung chung, ai muốn hiểu sao thì hiểu. Ví dụ như phát biểu “Đặc biệt là, tình hình Biển Đông hiện đang diễn biến rất phức tạp, nghiêm trọng, đòi hỏi toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta phải hết sức tỉnh táo, sáng suốt, tăng cường đoàn kết, cả nước một lòng, kiên quyết bảo vệ độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; đồng thời giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để xây dựng và phát triển đất nước.” Đọc xong đoạn văn chúng ta chẳng có thông tin nào, mà tất cả chỉ là những mĩ từ, giống như những khẩu hiệu được nối kết với nhau. Chúng ta cũng không có thêm thông tin, ngoại trừ một chữ rất chung chung là “phức tạp”. Hai chữ “phức tạp” có thể nói là rất phổ biến ở VN, đụng đến cái gì họ không giải thích được, không mô tả cụ thể được, thì họ bèn thay thế bằng hai chữ “phức tạp” mà chẳng ai hiểu gì cả. Cả một đoạn văn 74 chữ, chúng ta không thấy một ý nào cụ thể và không thể trích dẫn bất cứ câu nào.
Thứ hai là dùng nhiều sáo ngữ. Ví dụ tiêu biểu cho đặc điểm này là bài nói chuyện nhân kỉ niệm 40 năm ngày kí Hiệp định Paris: “Hiệp định Paris là đỉnh cao thắng lợi của mặt trận ngoại giao nước ta thời kỳ chống Mỹ, cứu nước, là mốc son trong trang sử vàng của nền ngoại giao cách mạng Việt Nam.” Chú ý những chữ “mốc son”, “sử vàng”, “mặt trận ngoại giao”, tất cả đều là những sáo ngữ. Có một loại sáo ngữ khác là chúng mang tính tích cực nhưng không có ý nghĩa thực tế. Vì dụ như bài diễn văn nhân dịp kết thúc một đại hội đảng, có đoạn: “Sau hơn 15 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII về văn hóa, tư duy lý luận về văn hóa của chúng ta đã có bước phát triển …. Nhiều phong trào văn hóa đem lại hiệu quả thiết thực. Truyền thống văn hóa gia đình, dòng họ, cộng đồng… được phát huy.” Chúng ta chú ý thấy nào là “phát triển”, “phát huy”, “hiệu quả thiết thực”, nhưng vì chúng không có một dữ liệu cụ thể nào nên tất cả chỉ là rỗng tuếch về ý nghĩa. Thật vậy, đọc xong đoạn phát biểu này chúng ta không thấy bất cứ một điểm cụ thể nào để nhớ hay để làm minh hoạ. Chẳng có một ý tưởng nào để đáng nhớ.
Một trong những sáo ngữ chúng ta hay thấy trong các bài phát biểu là “đánh giá cao”. Ví dụ như “tôi cám ơn và đánh giá cao bài phát biểu rất tốt đẹp của Ngài Thủ tướng Hà Lan”, “tôi đánh giá cao và chân thành cám ơn sự hỗ trợ của Chính phủ …”. “Đánh giá cao” hình như là một thuật ngữ đặc thù trong thế giới xã hội chủ nghĩa nó vẫn còn sống sót đến ngày hôm nay. Thoạt đầu nghe qua “đánh giá cao” thì cũng hay hay, nhưng nghĩ kĩ thì thấy câu này chẳng có ý nghĩa gì cả. Thế nào là đánh giá cao, cao cái gì? Tôi thấy nó là một sáo ngữ cực kì vô duyên và vô dụng.
Thứ ba là thiếu thông tin (lack of information). Có nhiều lãnh đạo quen tính nói rất nhiều, nhưng nếu chịu khó xem xét kĩ chúng ta sẽ thấy họ chẳng nói gì cả. “Chẳng nói” vì những gì họ nói ra không có thông tin, tất cả chỉ là những câu chữ lắp ráp vào nhau cho ra những câu văn chứ không có dữ liệu. Do đó, có khi đọc xong một đoạn văn chúng ta chẳng hiểu tác giả muốn nói gì. Chẳng hạn như phát biểu về hiến pháp, ông chủ tịch QH nói: “Chúng tôi cũng hiểu rằng một bộ phận, một số người trong các tầng lớp nhân dân và ngay một số ĐBQH cũng còn ý kiến khác. Tuy nhiên tuyệt đại nhân dân và Quốc hội có thể khẳng định đã đồng tình cao với bản Hiến pháp thông qua lần này. Với quyền năng nhân dân trao cho Quốc hội, chúng ta đã thể hiện được đại đa số nguyện vọng của toàn dân, của Quốc hội với tinh thần làm chủ của nhân dân, chúng ta sẽ biểu quyết theo tinh thần đó.” Câu cú và cấu trúc ý tưởng chẳng đâu vào đâu. Lúc thì quyền năng nhân dân trao cho Quốc hội, lúc thì nguyện vọng của toàn dân, của Quốc hội, lại còn đèo theo một câu “tinh thần làm chủ của nhân dân”. Câu chữ đọc lên nó cứ như là nhảy nhót loanh quanh, chẳng đâu vào đâu, và cuối cùng là chẳng có gì để nói!
Thứ tư là ngôn ngữ khẩu hiệu. Có thể nói rằng rất rất nhiều bài nói chuyện và diễn văn của các lãnh đạo chỉ là những khẩu hiệu được lắp ráp vào với nhau. Có những khẩu hiệu quá quen thuộc nên chẳng ai chất vấn tính chính xác của nó. Ví dụ như câu “Trong niềm tự hào, chúng ta thành kính tưởng nhớ và bày tỏ lòng biết ơn vô hạn với Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại – vị lãnh tụ thiên tài, Anh hùng giải phóng dân tộc, danh nhân văn hóa thế giới …”, có lẽ chẳng ai để ý đến chữ “danh nhân văn hóa thế giới”. Nếu người bình thường phát biểu như thế thì chắc người ta cũng lắc đầu bỏ qua, nhưng lãnh đạo mà phát biểu như thế thì chẳng có gì sáng tạo, chỉ lặp lại những câu chữ đã có trước đây. Thật ra thì ông cụ đâu được công nhận là danh nhân văn hoá thế giới.
Một loại ngôn ngữ khẩu hiệu khác mang tính tự hào. Tự hào là một “đặc sản” của các vị lãnh đạo VN, đi đâu cũng nghe họ nói về tự hào. Điều này cũng hiểu được, vì làm lãnh đạo thì phải gieo niềm tự hào vào người dân. Nhưng gieo không đúng chỗ và gieo mãi thì có thể trở thành phản tác dụng. Thử đọc bài diễn văn có đoạn “Chúng ta tự hào về đất nước Việt Nam anh hùng, nhân dân Việt Nam anh hùng, tự hào về những con người giản dị bằng những việc làm tốt của mình ở mọi lúc, mọi nơi đã góp phần làm nên vẻ đẹp văn hóa của con người Việt Nam, đất nước Việt Nam; góp phần quyết định để xây dựng đất nước ta ngày càng giàu mạnh.” Tôi tự hỏi có cần quá nhiều tự hào như thế. Đất nước anh hùng, con người anh hùng, vẻ đẹp văn hoá, v.v. nhưng tại sao đất nước vẫn còn nghèo và phải “ăn xin” hết nơi này đến nơi khác và ăn xin kinh niên, con người vẫn còn đứng dưới hạng trung bình trên thế giới. Thay vì tự ru ngủ là anh hùng và giàu mạnh, tôi nghĩ lãnh đạo phải nói thẳng và nói thật là đất nước vẫn còn rất nghèo, tài nguyên chẳng có gì, và cả nước đang phải đương đầu với ngoại xâm.
Thứ năm là … tự khen. Từ tự hào quen dùng khẩu hiệu dẫn đến tự mình khen mình là tài giỏi và vĩ đại, và đặc tính này tôi thấy khá thường xuyên. Một ví dụ tiêu biểu là bài viết của Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng nhân kỉ niệm 40 năm ngày 30/4: "Thắng lợi vĩ đại của sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước là thắng lợi của đường lối và nghệ thuật quân sự Việt Nam dưới sự lãnh đạo đúng đắn, sáng tạo của Đảng." Thật ra, đó là tựa đề của bài viết, mà dài như thế! Nhưng một phần tựa đề này là những khẩu hiệu chúng ta hay gặp trong suốt mấy thập niên qua. Cứ đề cập đến đảng là phải kèm theo những tính từ như sáng tạo, lỗi lạc, đứng đắn, quang vinh, vĩ đại, v.v. Tôi không bàn đến đúng hay sai về nội dung, mà chỉ muốn nói rằng rất hiếm thấy một tổ chức hay cá nhân nào mà tự khen như thế. Người Việt có câu "Hữu xạ tự nhiên hương", nếu mình làm điều tốt thì sẽ có người ghi nhận, chứ không cần phải tự khen như thế. Tự khen 1 lần thì có lẽ cũng không đến nỗi tệ, nhưng tự khen hết năm này sang năm khác, và tự khen khắp nơi như dàn đồng ca, thì rất dễ bị hiểu lầm là một bệnh lí tâm thần. Nhưng rất tiếc đó là một thói quen của các vị lãnh đạo, hay những người viết diễn văn cho các vị ấy.
Thứ sáu là loại ngôn ngữ hành chính hoá. Nếu chú ý kĩ chúng ta sẽ thấy phần lớn những bài nói chuyện, bài diễn văn các lãnh đạo đọc là họ nói với đảng viên, với quan chức, công nhân viên, với quân đội, v.v. chứ không phải nói với người dân. Có lẽ chính vì thế mà ngôn ngữ của họ thường mang tính hành chính. Có những chữ mà hình như họ sử dụng quá nhiều nên chẳng ai để ý ý nghĩa thật của nó, như “Trong thời kỳ đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế, đối ngoại phải tiếp tục là mặt trận quan trọng góp phần phát triển đất nước, bảo vệ Tổ quốc.” Đối với người dân bình thường, ít ai hiểu công nghiệp hoá, hiện đại hoá, hội nhập quốc tế là cái gì. Có thể nói đó là những ngôn ngữ xa lạ đối với người dân.
Những bài diễn văn của các chính khác phương Tây thường rất sinh động, thực tế, và có khi … vui. Chúng ta thấy nhiều lãnh đạo phương Tây (tiêu biểu là Mĩ) khi họ nói chuyện dù là trong buổi lễ rất trang trọng, mà họ vẫn làm cho khán giả vừa vỗ tay vừa cười. Khán giả cảm thấy gần gũi với diễn giả. Ngược lại, những bài diễn văn của lãnh đạo VN thường cứng nhắc, công thức, và lúc nào cũng tỏ ra hết sức nghiêm trọng (dù sự việc chẳng có gì nghiêm trọng). Vì thế mà khi lãnh đạo VN nói chẳng ai cười, có người lại buồn ngủ, tức là chính họ cũng cảm thấy nhàm chán. Khán giả cũng có khi vỗ tay, nhưng là vỗ tay theo kịch bản hơn là tự nhiên. Khán giả nghe họ đọc hơn là diễn. Một phần có lẽ do lãnh đạo VN chưa quen với văn hoá nói, và/hoặc họ cũng muốn tỏ ra là người quan trọng. Dù gì đi nữa thì những bài nói chuyện của lãnh đạo VN rất khó gần với người dân do ngôn ngữ cứng đơ và kém thân thiện, và cách họ triển khai bài nói chuyện quá xa rời công chúng.
Dĩ nhiên, những đặc điểm này không phải là độc quyền của các lãnh đạo VN, mà thỉnh thoảng các chính khách phương Tây cũng vướng phải. Khi họ vướng phải, người dân biết vị chính khách đó có vấn đề, hoặc là không nắm vững vấn đề, hoặc là lúng túng. Vì không nắm vững vấn đề nên họ nói chung chung. Có người nghĩ nói chung chung là nói “đa tầng”, nhưng thật ra đó chỉ là cách nguỵ biện thô thiển. VN nói về hội nhập quốc tế, nhưng với loại ngôn ngữ đặc thù XHCN trên đây, tôi nghĩ các lãnh đạo VN sẽ rất khó gần với lãnh đạo thuộc thế giới văn minh. Hội nhập cũng cần phải hội nhập về ngôn ngữ và phong cách.
Là người Việt, ai cũng muốn các lãnh đạo hay quan chức hay người đại diện VN ra nước ngoài làm cho mình tự hào, chứ không muốn họ có những phát ngôn hay hành vi làm mình không dám tự hào là người Việt. Bài này hoàn toàn và tự thâm tâm không có ý chê trách, chỉ muốn góp vài ý rất chân tình và mang tính cá nhân của tôi.
Giáo Sư Nguyễn văn Tuấn
(Dân luận)
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét