Thứ Tư, 17 tháng 6, 2015
Bà Nga và ngành tư pháp cãi nhau ! Ai đúng ?
Bà Nga và ngành tư pháp cãi nhau ! Ai đúng ?
( Tít do Hoàng đức doanh đặt )
NGUYÊN VĂN PHÁT BIỂU CỦA BÀ LÊ THỊ NGA,
Thảo luận ở hội trường về dự án bộ luật Tố tụng hình sự (sửa đổi)
NGUỒN: VĂN PHÒNG QH GỠ BĂNG GHI ÂM- http://quochoi.vn/…/kyhopthuchin/Pages/bien-ban-ghi-am.aspx…
"Kính thưa Quốc hội,
Tôi đánh giá cao Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ công an, Tòa án nhân dân tối cao là những thành viên chính của Ban soạn thảo đã đưa ra nhiều quy định mới tiến bộ, bảo vệ tốt hơn quyền của bị can, bị cáo. Cơ quan thẩm tra cũng đồng thuận cơ bản về nội dung, chỉ khác nhau ở vài điểm về mức độ và kỹ thuật thể hiện.
Tôi xin phát biểu vấn đề thứ nhất về Quyền không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình, hoặc buộc phải nhận là mình có tội.
Tôi đồng tình vì các lý do sau:
Về tính hợp lý và khoa học, xuất phát từ quyền tự nhiên của con người là quyền tự bảo vệ, một người là thủ phạm nhưng có thể có hàng chục người bị tình nghi và bị tình nghi chưa phải là có tội. Luật cần đảm bảo quyền này cho những người bị tình nghi khi bản thân họ tự thấy chưa đủ điều kiện về nhiều mặt như kiến thức pháp luật về thể chất, về tinh thần. Họ cần thời gian để bình tĩnh suy nghĩ cân nhắc cần có người trợ giúp pháp lý để tránh tình trạng tự đưa mình vào tình thế bất lợi tự buộc tội chính mình. Thực tế cho thấy lần đầu bị công an triệu tập nhiều người mất bình tĩnh, thậm chí hoảng loạn, nhất là người ít hiểu biết về pháp luật, vị thành niên, người dân tộc thiểu số, có những trường hợp đã tự sát tại nơi lấy lời khai hoặc nơi giam giữ.
Trường hợp của anh Hoàng Văn Ngài, người dân tộc H' Mông tự sát năm 2013 tại công an Gia Nghĩa, Đắc Nông sau 2 ngày bị triệu tập lên làm việc là một ví dụ cụ thể.
Quyền tự bảo vệ đó thực chất là một phần quan trọng của quyền bào chữa, đây là một phương thức tự bảo vệ đơn sơ nhất, nhưng khả thi nhất cho người dân, dù ở trình độ nhận thức pháp luật thấp nhất trước sự đối diện với điều tra viên được đào tạo bài bản về thủ pháp điều tra, dày dạn nghiệp vụ thẩm vấn.
Thực hiện quyền này còn giúp giảm tối đa oan sai, nếu bỏ lọt tội phạm chỉ sai một lần thì làm oan là đã nhân đôi số lần sai vì đã bao hàm cả bỏ lọt.
Việc dùng mọi biện pháp kể cả vũ lực buộc nghi can phải khai nhận tội mà mình không thực hiện, sau đó hợp thức hóa ngụy tạo chứng cứ khác cho phù hợp với diễn biến lời nhận tội rồi lấy đó làm chứng cứ để buộc tội trước tòa.
Đây là nguyên nhân gốc rễ của những vụ án oan chấn động dư luận vừa qua. Vụ kết tội Huỳnh Văn Nén cùng 5 người khác trong gia đình nhà vợ giết bà Dương Thị Mỹ, vụ Nguyễn Thanh Chấn và vụ Trần Văn Đỡ ở Sóc Trăng là ba vụ điển hình.
Về căn cứ pháp lý hiện hành, Điều 14, Công ước quốc tế về quyền dân sự, chính trị năm 1966. Việt Nam tham gia năm 1982 đã ghi nhận quyền không bị buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận là mình có tội.
Điều 14, Hiến pháp mới quy định, các quyền con người, quyền công dân về chính trị, dân sự được công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm. Theo Bộ luật tố tụng hình sự thì trách nhiệm chứng minh thuộc về các cơ quan tiến hành tố tụng,
Điều 10. Người bị tạm giữ, bị can, bị cáo có quyền trình bày lời khai, trình bày ý kiến, Khoản 2, các Điều 48, 49, 50. Đáng lưu ý trong Khoản 3 các điều này về nghĩa vụ thì không quy định nghĩa vụ phải khai báo.
Theo Bộ luật hình sự thì khai báo thành khẩn được hưởng chính sách khoan hồng, Khoản 2, Điều 3. Được hưởng tình tiết giảm nhẹ, Điểm b, Khoản 1, Điều 46. Nhưng trong các tình tiết tăng nặng tại Điều 48, không quy định tình tiết không khai báo. Những quy định này kế thừa từ các Bộ luật hình sự và tố tụng hình sự đầu tiên của nước ta. Các Điều 34, 38, Bộ luật tố tụng hình sự năm 1988. Điều 38, 39, Bộ luật hình sự năm 1985.
Thưa Quốc hội, như vậy có thể khẳng định đã từ lâu pháp luật Việt Nam đã xác định việc trình bày lời khai là quyền của người bị bắt, bị tạm giữ, bị can, bị cáo, họ có trình bày hay không là quyền của họ, luật không quy định nghĩa vụ buộc phải thực hiện quyền trình bày lời khai.
Về tồn tại trong thực tiễn, do kỹ thuật lập pháp không quy định trực tiếp quyền không trình bày lời khai mà chỉ có thể hiểu gián tiếp, nên thực tế những quy định trên không được chấp hành nghiêm. Cùng với những hạn chế của tố tụng thẩm vấn nên đã trở thành thói quen trong cả nhận thức và hành động của không ít người tiến hành tố tụng.
Việc phụ thuộc vào lời khai nhận tội của nghi can và suy đoán có tội đã trở thành khá phổ biến. Điều tra, truy tố, xét xử sẽ được kết thúc một cách nhanh chóng nếu có được lời nhận tội.
Vì vậy, thực tế nhiều trường hợp đã biến từ quyền trình lời khai thành nghĩa vụ phải khai báo và đã từng xảy ra mớm cung, bức cung, nhục hình. Biến việc không thực hiện quyền trình bày lời khai thành thiếu thành khẩn, không hợp tác với cơ quan tố tụng, nghi can tự bào chữa bị coi là quanh co chối tội, hòng trốn tránh trách nhiệm. Tất cả những tình tiết này đều bị tòa án dùng làm căn cứ để quyết định mức án nặng hơn.
Việc lãnh đạo liên ngành tư pháp Trung ương vừa qua tại Báo cáo số 38/2015, kiên trì bảo vệ bản án kết tội Hồ Duy Hải trên cơ sở chủ yếu căn cứ vào những lời nhận tội của Hải mà bỏ qua những lời khai không nhận tội. Bỏ qua hàng loạt vi phạm rất nghiêm trọng cả về nội dung và tố tụng. Theo tôi đây là một minh chứng rõ ràng của suy đoán có tội và phụ thuộc vào lời nhận tội.
Thưa Quốc hội, với những phân tích trên cho thấy tính lịch sử, tính hợp pháp khoa học phù hợp với thông lệ quốc tế đã được thừa nhận. Quy định như dự thảo rõ ràng là minh bạch hơn so với hiện hành. Vừa giúp cho bị can, bị cáo thấy rõ quyền của mình, người tiến hành tố tụng thấy rõ nghĩa vụ và giúp nhà nước chống oan sai. Đây cũng là tiền đề rất quan trọng để thực hiện nguyên tắc trách nhiệm chứng minh, suy đoán vô tội và đảm bảo quyền bảo chữa.
Để thực hiện tốt quy định này đối với các cơ quan tố tụng phải nâng cao năng lực trình độ để chứng minh bằng những bằng chứng khách quan ngoài lời nhận tội. Đối với bị can, bị cáo tuy có thể không trình bày lời khai nhưng nhà nước không khuyến khích im lặng trong suốt quá trình tố tụng. Lời khai của họ còn là căn cứ để mở rộng điều tra, làm rõ nhiều tình tiết quan trọng khác của vụ án. Để bảo vệ lợi ích chung, trong một số trường hợp như họ đồng thời là nhân chứng thì phải có nghĩa vụ khai báo nội dung liên quan đến nghĩa vụ của người làm chứng.
Vấn đề thứ hai, về bắt buộc ghi âm, ghi hình hoạt động hỏi cung. Tôi ủng hộ và đề nghị quy định rõ hơn tại Điều 174 là khi hỏi cung phải ghi âm và ghi hình. Quy định này nhằm đảm bảo quá trình hỏi cung, ghi nhận khách quan hoạt động nghiệp vụ của điều tra viên, kiểm soát viên, luận sư. Là bằng chứng khách quan để bảo vệ điều tra viên nếu bị nghi can vu cáo cho là bức cung, nhục hình. Bảo vệ bị can nếu việc bức cung, nhục hình là có thật. Bảo vệ luật sư nếu bị nghi ngờ là xui cho bị can chối tội.
Tại phiên chất vấn ngày 21/1/2013, trước đề nghị lắp camera giám sát tất cả các cuộc hỏi cung, Bộ trưởng Trần Đại Quang đã trả lời trước Quốc hội như sau: "Đây là một giải pháp nhằm đảm bảo an ninh, an toàn và tăng cường quản lý giám sát các hoạt động hỏi cung. Bộ công an đã lựa chọn giải pháp này và đang từng bước lắp đặt. Mới lắp đặt được ở một số địa bàn trọng điểm do còn khó khăn về kinh phí. Để triển khai toàn bộ kế hoạch này, bộ sẽ báo cáo Chính phủ, Quốc hội tăng thêm kinh phí đầu tư cho điều tra hình sự".
Trong báo cáo giám sát oan sai vừa qua, Ủy ban thường vụ Quốc hội đã kiến nghị Chính phủ đầu tư kinh phí cho thiết bị ghi âm, ghi hình để ghi nhận chứng cứ chống bức cung nhục hình.
Như vậy, thưa Quốc hội, cho đến nay ý kiến chính thức của Bộ công an, Tòa án tối cao, Viện kiểm sát tối cao là thống nhất, Thường vụ Quốc hội thống nhất, Ủy ban thẩm tra cơ bản đồng tình.
Tôi cho rằng sự đồng thuận đó cũng đủ để chúng ta luật hóa quy định này như đề xuất của Ban soạn thảo.
Nếu phản biện nói rằng không đủ kinh phí thì đề nghị phải đưa ra số kinh phí cần là bao nhiêu.
Vấn đề cuối cùng là quyền đọc hồ sơ không có người bào chữa. Tôi đồng tình cho những người tự bào chữa được đọc hồ sơ. Nhưng cũng đề nghị cơ quan soạn thảo là cho đọc toàn bộ hồ sơ vì đối với người bào chữa là cần phải tiếp cận chứng cứ gỡ tội là điều quan trọng. Trong dự thảo mới nói là chỉ được đọc phần chứng cứ liên quan đến buộc tội, nếu như vậy thì lấy gì để bào chữa, lấy gì để tranh tụng. Vì vậy, tôi đề nghị cho người tự bào chữa được tiếp cận toàn bộ hồ sơ trong đó có cả chứng cứ gỡ tội và buộc tội.
Tôi xin hết."
FB Kien Hong
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét