Thứ Sáu, 21 tháng 11, 2014

Tại sao tôi không làm được cái đinh vít?

Tại sao tôi không làm được cái đinh vít?
Câu chuyện tư duy đinh vít của VN
Phan Châu Thành

Câu chuyện VN và cái đinh vít chưa làm được đã thành biểu tượng “chua chát” cho trình độ “đỉnh cao” hôm nay của nền công nghiệp hay kinh tế VN nói chung, và công nghiệp phụ trợ VN nói riêng.

Không thể chối cãi. Không thể đổ lỗi cho các thế lực thù địch. Không thể biện minh. Phản ứng bản năng cho mọi vấn đề của chính phủ CS VN như trên (chối cãi, đổ lỗi, biện minh...) ở đây không xài được, nên thủ tướng 3X mới đây quay sang công nhận sự thật đó, nhưng lại “nổ súng” vào nhân dân, đổ cho doanh nghiệp vừa và nhỏ quá yếu kém... Đó là phản ứng bản năng mới của CSVN: khi không tìm ra thế lực thù địch thì... đổ cho trình độ dân trí yếu kém (vì “quan trí” thì vẫn ngon lành!).



Nhưng câu hỏi tư duy ở đây thì vẫn không thấy ai đặt ra: Tại sao VN đến hôm nay không làm được cái đinh vít mà vẫn phải đi nhập khi trong nước vừa thiếu tiền, vừa thiếu việc, vừa dư thừa kỹ sư tiến sĩ và công nhân giá rẻ?

Hôm trước, ông anh cọc chèo của tôi là “Tổng” của một Tổng công ty nhà nước nhớn ở Hà Nội vào “họp” trong Sài Gòn, gặp nhau tôi hỏi chào xã giao: “Anh vào họp mấy ngày?”, thì hắn nói: “Họp chó gì đâu, nó mời đi xem để mua cái máy.” Chả biết máy gì, nhưng tôi không thèm hỏi nữa, thấy y chang thằng bạn tôi ở Đà Nẵng, cũng “Tổng” một công ty lớn có vai trò “chủ đạo nền kinh tế định hướng”. Hôm nọ nó vào Sài Gòn tôi móc “Mày họp hành gì lắm thế?” nó nói: “Họp gì, vẫn là vào xem mua mấy cái máy xúc cũ, lần trước chưa mua...” Tôi biết, các tổng giám đốc các “lực lượng chủ đạo” chỉ tót cái là bay vào Sài Gòn (bằng tiền của khách hàng) để “quyết các vấn đề kỹ thuật” (mà không dám tin các kỹ sư và “phó tổng kỹ thuật” và các phòng ban kỹ thuật của mình...), là vì họ phải vào để thỏa thuận ăn chia trực tiếp, để nhận phong bì ngay (nếu phi vụ nhỏ), chứ kiểm tra kỹ thuật gì... Nhưng chính ông anh cọc chèo đó, hôm sau (có lẽ sau khi được khách hàng đến tận nhà đón đi “xem hàng”, ăn nhậu và nhận phong bì rồi) lại quay sang hạch tôi: “Sao chú không làm con ốc vít đi! Đơn giản thế mà không làm được?”


Tại sao tôi kể câu chuyện trên, vì có vẻ không liên quan đến cái đinh vít của VN lắm? Có đấy, vì ba lý do sau:

 Thứ nhất, đó là yếu tố kỹ thuật trong kinh tế VN luôn bị bỏ qua hay lợi dụng bằng trăm phương ngàn cách “chính trực” cho các mục đích khác mà cụ thể là tham nhũng, là chính, luôn làm đội giá khủng khiếp mọi sản phẩm hay công trình, nên cái đinh vít giá thành rất nhỏ sẽ không cõng được các chi phí tham nhũng mà nó “sinh ra”;

 Thứ hai, cách tư duy đinh vít của các “ranh nhân định hướng”, rằng đinh vít là chuyện nhỏ của đám tư nhân, không đáng để “nhà nước” hay doanh nghiệp nhà nước quan tâm, nên thực trạng VN phải nhập từ các loại đinh vít trở đi là do các doanh nghiệp tư nhân quá yếu kém…;

 Và thứ ba, bài viết này để trả lời câu hỏi của ông anh cọc chèo đã hỏi khiêu khích tôi hôm trước.

Chúng tôi làm đinh vít


Gần hai chục năm trước, trước năm 2000, khi làm đại lý nhập và cung cấp các thiết bị chuyên dụng cho các ngành công nghiệp như điện lực, dầu khí, hàng hải... chúng tôi đều phải nhập kèm mọi loại ốc vít. Khi số lượng ốc vít cần nhập ngày càng tăng thì chúng tôi có bộ phận nhỏ chuyên nhập ốc vít chất lượng cao cho các khách hàng lớn. Và chúng tôi nhận ra thực tế: một con ốc vít tương đương bán ở chợ Dân Sinh có giá chỉ bằng 1/10 đến 1/5 giá chúng tôi bán cho các công trình, đôi khi chỉ bằng... 1/20, dù chúng tôi đã chiết khấu lãi rất thấp (lãi dự toán chỉ là 10-15%, ăn vào số vòng quay vốn là chính) vì sợ giá bán lên quá cao. Nhưng khách hàng vẫn mua, vì hàng nhập có chất lượng cao đảm bảo (cho cả vật liệu lẫn gia công), có thương hiệu uy tín lớn ổn định, và có tất cả các loại chứng chỉ chất lượng quốc tế (đảm bảo tất cả ba yếu tố của kỹ thuật).

Nhận ra cơ hội kinh doanh lớn (sản xuất óc vít chất lượng cao trong nước cho nhu cầu trong nước), chúng tôi đã lập dự án đầu tư kinh doanh. Chúng tôi đã tìm và nhanh chóng chọn đối tác nước ngoài để liên doanh, nhưng các đối tác trong nước thì không dễ - người có vốn thì không muốn làm, và ngược lại.

Các vấn đề vốn (cho nhà xưởng, máy móc, nhập vật liệu...) đã khó, vấn đề thị trường càng khó hơn và chúng tôi không thể vượt qua, vì các khách hàng lớn nhà nước trong điện lực, dầu khí, hàng hải, lắp máy... đều tự lập ra các công ty “sân sau” để tự cung ứng vật tư thiết bị cho chúng. Và bọn này chỉ mua đồ Tàu (chợ Dân Sinh) rồi tự chế (in ấn rất màu mè nhưng sai văn phạm và từ ngữ thương mại, kỹ thuật) các loại chứng chỉ “xuất xứ ngoại”, “nhập khẩu” và “chất lượng”... và được “khách hàng” chấp nhận hết. Chỉ còn các công ty FDI thì đa số cán bộ phụ trách vật tư cũng là người Việt và số đông họ cũng nhanh chóng thành lập các “công ty sân sau” của mình để cung cấp cho công ty FDI mẹ cũng “của mình”... Với chúng tôi, thị trường tiềm năng vừa hé ra đã biến mất...

Về phía chính sách nhà nước, tất nhiên chúng tôi cũng chỉ gặp rất nhiều cản trở cho dự án của mình, chủ yếu là do công nghiệp phụ trợ không có tên trong danh mục quản lý của nhà nước “định hướng” này, chứ đừng nói đến việc nó có tên trong danh mục ưu tiên, ưu đãi hay khuyến khích. Nó là cái... đinh vít mà các ngành phải tự lo thôi, trong khi nhà nước CS này chỉ “định hướng” ưu tiên cho các “quả đấm thép” lớn như Vinasshin, Vinalines, Vina-Oil, Vina-ôi-rồi!...


Hồi đó tôi có ôm dự án ốc vít của mình ra muốn liên doanh với Vinashin để sản xuất (cho tất cả các ngành trong đó có đống tàu, hàng hải), nhưng ông Bình TGĐ chê bé (chỉ có mấy trăm ngàn đô) không thèm làm, bảo nếu tôi kéo hãng nước ngoài vào liên doanh với VNS sản xuất động cơ tầu biển thì ổng sẽ liên doanh góp vốn đến hàng ngàn tỷ đồng (tức mấy chục đến gần trăm triệu đôla), nhưng tôi từ chối vì nghĩ đó sẽ là dự án không tưởng. Thực tế sau đó Vinahin đã đầu tư trên ngàn tỷ đồng cho nhà máy động cơ tầu biển Sông Công ở Vĩnh Phúc và số tiền đó đã hoàn toàn “bốc hơi”...

Và cản trở lớn khác quá khó vượt qua đối với chúng tôi đến từ các công ty thương mại kỹ thuật từ Đài Loan và Trung Quốc (đôi khi cả Singapore và Hàn quốc nữa...). Họ có thể nhập hàng có “chất lượng”, “uy tín”, “chứng chỉ quốc tế” với giá rẻ hơn chúng tôi nhập từ Âu, Mỹ... nhiều (tất nhiên vẫn gấp 5-10 lần giá ở chợ Dân Sinh của ba Tàu...) Nay thì họ chiếm và chi phối hoàn toàn thị trường trong nước VN của công nghiệp phụ trợ rồi. Với họ, đó là nơi tiêu thụ sản phẩm phụ trợ các loại trong đó có các loại ốc đinh vít (có đến hàng chục ngàn chủng loại khác nhau) sản xuất tại TQ và Đài loan nhưng có “chứng chỉ Quốc tế” cho cả vật liệu kim loại và công nghệ gia công của họ rồi.

Thế là, gần hai chục năm trước chúng tôi đã không những không thể triển khai “dự án con ốc vít” đầy tâm huyết của mình được, mà việc kinh doanh ốc vít xịn cũng teo đi nhanh chóng (chỉ còn là dịch vụ bổ sung cho khách hàng nào tin cậy mình) vì ngày càng có rất ít công ty thực sự có người mua vật tư muốn mua ốc vít xịn như SamSung nữa... Mặt khác, ốc vít xịn, chất lượng đảm bảo thật chúng tôi nhập từ Mỹ hay EU thật, nhưng vẫn có thể được sản xuất ở Tàu cộng hay Đài Loan, chỉ là chúng do người Âu hay Mỹ quản lý chất lượng nơi sản xuất và rồi được “xuất qua Mỹ” hay EU để rồi lại nhập vào VN, trên giấy tờ, còn trên thực tế chúng chỉ được xuất ra các Khu chế xuất của TC hay Đài Loan rồi thay nhãn mác xuất xứ, chứng chỉ để nhập vào Việt Nam...


Hôm nay nhìn lại, chúng tôi rất tiếc dự án tâm huyết của mình, nhưng cơ hội đã qua, bây giờ làm lại thì trở ngại lớn hơn nhiều nữa rồi, và bức tranh cũng “sinh động” khác trước nhiều rồi, dù cơ chế vẫn thế hay còn “định hướng” mãnh liệt hơn.

Thực chất vấn đề nằm ở đâu? Hay: Tại sao VN không làm được đinh vít?

Qua ví dụ thực tế của mình trên, cùng gần ba chục năm kinh doanh thiết bị kỹ thuật, kể từ con ốc vít trở đi, tôi muốn trả lời câu hỏi tư duy về “câu chuyện con ốc vít của VN” mà mình đặt ra như trên: Tại sao VN sau gần 30 năm đổi mới kinh tế vẫn không làm được con ốc vít?

Theo tôi, có hai lý do chính sau:

Thứ nhất, tư duy sai về công nghiệp phụ trợ từ các cấp quản lý kinh tế nhà nước từ những ngày đầu mở cửa kinh tế khoảng 1986 đến nay vẫn thế, rằng các ngành phải và có thể tự lo phát triển công nghiệp phụ trợ của riêng mình (vì nó chỉ là phụ và trợ giúp cho ngành đó?!)

Công nghiệp phụ trợ là gì? Nó không đơn giản là “phụ” (auxiliary) và “trợ” (supporting) như tên gọi, mà thực chất nó là vật liệu, sản phẩm, bán sản phẩm cơ bản (basic elements, materials) tham gia vào quá trình sản xuất hay cấu thành (contributing to) nên các sản phẩm cuối của tất cả các ngành công nghiệp. Vì thế không có công nghiệp phụ trợ cho từng ngành mà chỉ có công nghiệp phụ trợ cho cả nền kinh tế. Với cả nền kinh tế quốc gia thì công nghiệp phụ trợ là một ngành không nhỏ.

Hãy lấy ví dụ như con ốc vít, hộp sơn hay bao bì - chúng có thể tham gia (cần thiết) trong tất cả mọi ngành sản xuất kinh doanh, từ cả khâu đầu đến khâu cuối (đáp ứng định nghĩa công nghiệp phụ trợ là gì).


Ví dụ 1: Nếu ngành đóng tàu hay xăng dầu đầu tư sản xuất sơn công nghiệp - dù họ dùng rất nhiều thì vẫn lỗ vì họ chỉ hiểu một loại sơn và có một thị trường nhỏ là chính mình nên chất lượng vẫn kém, giá thành vẫn cao và kết quả sẽ thua lỗ vì không thể cạnh tranh với các hãng sơn quốc tế, thực tế là cả Vinashin và Petrolimex hiện đều có nhà máy sơn đầu tư hàng ngàn tỷ đồng nhãn hiệu Vinashin và Petrolimex nhưng đều lỗ to... là vì vậy. Ở đây, cơ chế thị trường đã bị phá hỏng hoàn toàn: người bán là người mua, hoặc: người bán không hiểu người mua muốn gì?

Ví dụ 2: Với cái đinh vít cũng vậy. Nếu ngành dầu khí (Petrovietnam) hay đóng tàu (Vinashin), hay điện tử (Viettronics) tự đầu tư sản xuất đinh vít cho chính mình (vì họ dùng khá nhiều) thì ngay lập tức họ phải sản xuất đinh vít chất lượng cao nhất (chỉ thua hàng không và NASA), nên phải đầu tư rất lớn và giá thành sẽ rất cao, không thể cạnh tranh về giá với ốc vít chất lượng nhập từ EU hay USA về. Nếu một công ty tư nhân nhỏ (như chúng tôi) muốn làm đinh vít cho Samsung thì cũng gặp vấn đề tương tự, vì nhu cầu của Samsung hay các công ty như Samsung không thể đủ nuôi nhà sản xuất đinh vít được, chúng tôi sẽ phải lo xuất khẩu và mở rộng mặt hàng ốc vít cho các ngành công nghiệp khác, có các đặc thù khác... thì mới hy vọng tồn tại được. Tóm lại là chúng tôi sẽ phải sản xuất khoảng trên 10 nghìn chủng loại ốc vít khác nhau (về kích cỡ, thiết kế, vật liệu, công nghệ gia công...) và mỗi năm chỉ bán được khoảng 3-4,000 nghìn loại trong số đó với số lượng nhỏ đem lại doanh thu trung bình chỉ khoảng 2,000 đôla/loại hay tổng doanh thu là 2.000x 4.000=8 triệu đôla/năm... thì mới có lãi (Để cung cấp riêng cho ngành dầu khí hiện nay chúng tôi phải có trong kho một số lượng tối thiểu của trên 5 nghìn chúng loại ốc vít đặc chủng và hàng năm chỉ bán được khoảng 3-500 loại từ đó, rồi lại nhập về...)


Ví dụ 3: Sản xuất bao bì có phải công nghiệp phụ trợ? Bao bì có thể chia thành bao bì sản cho phẩm công nghiệp và cho các sản phẩm tiêu dung đại chúng. Trường hợp đầu, sản xuất bao bì là công nghiệp phụ trợ, như sản xuất sơn công nghiệp. Trường hợp sau, bao bì có thể làm tăng gái trị sản phẩm lên nhiều lần (nhất là khi bao bì làm thay đổi thương hiệu sản phẩm), thì sản xuất bao bì là phân khúc đặc biệt quan trọng của sản xuất hàng tiêu dung, không hề “phụ trợ” nữa.

Từ Ví dụ 2 và 3 ta thấy bản chất công nghiệp phụ trợ là gì. Đó không chỉ còn là vấn đề sản xuất nữa (thực chất thì ai cũng có thể sản xuất được ốc vít, chỉ khác nhau giá thành), mà là vấn đề quản lý sản phẩm (chất lượng và số lượng), bảo vệ, trưng bày sản phẩm và quản lý hệ thống tiêu thụ sản phẩm sao cho giá thành cuối cùng đến người mua thấp nhất và giá bán cao nhất. Đó thực chất là vấn đề của dịch vụ công nghiệp (dịch vụ phân phối, thương mại công nghiệp), không phải chỉ là sản xuất công nghiệp nữa.

Vậy định nghĩa mới của công nghiệp phụ trợ là ngành dịch vụ công nghiệp cung cấp các vật liệu, sản phẩm, bán sản phẩm cơ bản tham gia trong quá trình sản xuất hay góp cấu thành nên các sản phẩm cuối cùng và đóng gói trưng bày sản phẩm ra người tiêu dùng cho các ngành kinh tế khác.


Như vậy, vì tư duy sai hoàn toàn về công nghiệp phụ trợ nên chính phủ không có chính sách hay có chính sách không đúng để làm nền tảng cơ sở và khuyến khích nó phát triển. Tư duy về khái niệm dịch vụ bên cạnh khái niệm sản xuất còn như là lỗ đen trong lý thuyết kinh tế “định hướng XHCN” vốn chỉ biết chú trọng vào sản xuất mà thôi. Nói đến công nghiệp phụ trợ như làm con ốc vít, Chính phủ VN chỉ biết nói VN chưa “làm được” con ốc vít chứ không biết nói được rằng VN chưa biết tổ chức quản lý sản xuất và phân phối những con ốc vít sao cho hiệu quả kinh tế.

Thứ hai, hậu quả của nguyên nhân tư duy và sách lược sai trên, là môi trường và văn hóa kinh doanh ở VN không khuyến khích cho nền kinh tế dịch vụ nói chung, trong khi công nghiệp phụ trợ bản chất là dịch vụ công nghiệp.

Từ giữa thế kỷ 20 kinh tế thế giới đã dần chuyển sang nền kinh tế dịch vụ trong đó đóng góp của dịch vụ trong GDP của đa số các quốc gia đều tăng lên đến trên 50%, với các nước phát triển hiện nay là trên 60% đến gần 80%. Trong khi đó, VN còn vẫn lặn ngụp trong tư duy kinh tế “sản xuất” XHCN (vốn không coi dịch vụ là hoạt động kinh doanh tạo ra giá trị cho xã hội như sản xuất, mà chỉ có sản xuất...) gọi là “kinh tế định hướng XHCN”, nên dịch vụ chỉ đóng góp chừng 40% GDP quốc gia, và khái niệm dịch vụ tạo ra giá trị mới thực chất vẫn không được nhìn nhận đúng, cụ thể như VN vẫn không coi giáo dục hay văn hóa là dịch vụ hoàn toàn để mở cửa thị trường này theo các tiêu chí của WTO, mà vẫn cố đóng chúng lại để quản lý bằng can thiệp hành chính của bộ máy chính trị “định hướng”...


Các lĩnh vực mà VN dù đã công nhận là dịch vụ như thương mại (phân phối), tài chính, y tế... vì thế đều kém phát triển và đi sau thế giới rất xa. Công nghiệp phụ trợ không được nhìn nhận và hiểu là dịch vụ công nghiệp lại càng thảm hại hơn, như chúng ta đang thấy: nó không tồn tại trong mắt người Việt trên đất Việt. Giống như dịch vụ phân phối hàng tiêu dùng thông qua các hệ thống siêu thị bán sỉ-bán lẻ như Metro, Big C..., công nghiệp phụ trợ VN vẫn có đó, nhưng nó do người nước ngoài hiểu, chiếm lĩnh và chi phối hoàn toàn.

Đó là về lý thuyết. Trên thực tế thì môi trường kinh doanh của CNPT VN hay “kinh doanh ốc vít” như trong ví dụ dự án ốc vít của chúng tôi trên, ta thấy: tham nhũng được bảo trợ mấy chục năm nay đã len lỏi vào mọi hang cùng ngõ hẻm, cấp “chứng chỉ quốc tế” cho từng con đinh ốc làm và bán ở chợ Dân Sinh để chúng ra các giàn khoan, vào các nhà máy điện lớn vốn đến vài ngàn tỷ đồng của nhà nước (với giá quốc tế) qua các công ty sân sau nội địa hay Đài Loan, Tàu... rồi, doanh nghiệp tư nhân không có cách chi thắng chúng cả, lo đủ sống cho gia đình và nhân viên ngày càng ít đi một cách lương thiện đã vô cùng khó rồi...


Nói cách khác, môi trường kinh doanh VN đã, đang và sẽ bóp chết hết các doanh nhân đích thực, chỉ để đất sống cho bọn ma cô sân sau tư bản đỏ. Tài giỏi như anh Hải ở Tây Ninh có thể làm máy bay và xe tăng cũng phải sang Campuchia mới có đất trọng dụng mình, nay nếu tôi nói mình sẽ làm được cái đinh vít cho Samsung thì 3 Dũng sẽ trọng dụng tôi sao? Híc...

Tương lai nào cho công nghiệp phụ trợ VN?

Để trả lời câu hỏi trên chúng ta cần trả lời câu hỏi khác để định vị: Tương lai nào cho Công nghiệp phụ trợ thế giới? Công nghiệp phụ trợ thế giới (mà thực chất là dịch vụ công nghiệp thế giới) đã đi vào giai đoạn phát triển mới cao hơn như công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng, mà chi phí sản xuất chỉ chiếm khoảng 10-20% giá trị, còn 80%-90% chi phí và giá trị tạo ra nằm ở phần dịch vụ phân phối và tiêu thụ. Trong các công đoạn sản xuất 10% đó, robots và dây chuyền tự động đã đang dần thay thế nhân công. Không phải vài chục năm nữa mà hiện nay việc sản xuất linh kiện vật tư phụ trợ như đinh vít, sơn, hay bao bì... trên thế giới đa phần đã được sản xuất hoàn toàn tự động mà con người chỉ còn thiết kế và giám sát, hoàn thiện chúng (trừ ở VN). Có nghĩa là, với CNPT, phần sản xuất càng ngày càng nhỏ đi và phần dịch vụ phân phối càng quyết định hoàn toàn. Đó là hiện tại và tương lai gần.


VN hiện nay, vì vẫn tư duy công nghiệp phụ trợ (CNPT) là sản xuất chiếm chủ yếu, nên sau khi “phát hiện” VN chưa sản xuất được đinh ốc, chính phủ đã chi ngay vốn ưu đãi khuyến khích doanh nghiệp đi vào “sản xuất đinh ốc chất lượng cao”. Và thực tế là các doanh nghiệp đang tranh nhau để “được làm” việc đó (vì có tiền đầu tư ưu đãi), trong khi vẫn chưa hiểu thực chất công nghiệp phụ trợ là gì..., chưa hiểu sẽ phải sản xuất đinh ốc hay bán đinh ốc để sống là chính? Sản xuất ra mà không bán được hay bán lỗ thì sao, có tự hào không?...

Cho đến khi họ hiểu ra đó là dịch vụ công nghiệp, và bán sản phẩm công nghiệp là chính, thì vốn đầu tư đã tiêu tan cho sản xuất hết, và chắc chắn nếu có ra sản phẩm thì cũng không thể cạnh tranh với sản phẩm của robots và các dây chuyền tự động, về cả chất lượng và giá thành. Thế là, khoảng cách tương lai của công nghiệp phụ trợ VN với dịch vụ công nghiệp phụ trợ thế giới sẽ ngày càng lớn hơn... Hôm nay CNPT VN là số 0 với số dương lớn của CNPT thế giới, ngày mai sẽ là số âm to với số dương đó có nhiều đuôi số không hơn...

Có một điều “an ủi” là đa số vốn chính phủ đang và sẽ bỏ ra hỗ trợ cho CNPT VN sẽ không “chết âm” cùng CNPT VN, mà nó sẽ được đưa vào việc khác của các công ty “sân sau đỏ” của CP để phục vụ các nhóm lợi cích “đỏ”...

Chỉ có dân đen đóng thuế cho quan đỏ là sẽ chết đau đớn hơn chút nữa vì những cái đinh ốc đó mà thôi.

 Nhưng tôi vẫn muốn nói thêm câu này để kết:

Tương lai cho ngành công nghiệp phụ trở VN sẽ rất sáng lạn, chỉ sau khi chế độ CS này tan rã cùng nền kinh tế “định hướng XHCN” của nó sụp đổ hoàn toàn. Khi đó, tôi sẵn sàng khởi động lại dự án cái đinh ốc VN của mình, bằng trái tim và khối óc của một doanh nhân Việt đích thực, và tôi tin vì thế mình sẽ thành công.

Phan Châu Thành

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét